Lễ vía Đức Quán Thế Âm Bồ Tát
Lễ Hội Vía Quan Âm
ĐĐ. Thích Giác Nhàn
Danh xưng Đại Bi Quán Thế Âm Bồ tát là một phần đức tính của mười phương ba đời chư Phật, vì thế đức tính Từ Bi này nơi mọi chúng sinh vốn sẳn cho nên ai cũng có thể thành đạt đức tính này.
Video bài giảng
Hằng năm những người con Phật khắp nơi trên thế giới đều làm lễ cúng vía đức Bồ tát Quán Thế Âm thật trang nghiêm vào các ngày:
- Ngày 19/02 kỷ niệm ngày Quán thế Âm Đản Sanh
.
- Ngày 19/06 kỷ niệm ngày Quán thế Âm Thành Đạo
.
- Ngày 19/09 kỷ niệm ngày Quán thế Âm Xuất Gia
.
Đặc biệt năm nay lễ Kỷ niệm ngày Thành đạo của Bồ tát Quán Thế Âm ngay vào dịp Phật giáo Việt Nam tổ chức kính chào mừng Đại lễ nghìn năm Thăng Long 22.7-02.8.2010, nhằm ngày 16-22.6.Canh Dần.
Vào Triều Lý tôn Phật giáo Quốc đạo, dùng chủ nghĩa : TỪ BI hiện thực, lý tưởng Bồ Tát đạo làm kim chỉ nam, quốc sách an dân kiện toàn trong mọi lĩnh vực :
Lý Thái Tổ xuất thân học Phật,
Lấy đức lành dạy bảo dân yên,
Lẫy lừng phạt Tống, bình Chiêm,
Mấy trăm năm Lý văn minh rạng ngời.
Như vậy triều Lý đã xây dựng nền tảng vững chắc trong việc dùng chủ nghĩa: TỪ BI hiện thực, lý tưởng Bồ Tát đạo làm kim chỉ nam, Quốc sách An Dân kiện toàn trong mọi lĩnh vực, để triều đại nhà Trần phát huy ý thức Độc Lập Tự Cường :
Trần Thái Tôn dựa nơi Phật Pháp,
Dùng tu hành trị nước an dân,
Mấy lần đuổi giặc ngoại xâm,
Truyền ngôi kế vị mấy trăm năm liền.
Danh xưng Đại Bi Quán Thế Âm Bồ tát là một phần đức tính của mười phương ba đời chư Phật, vì thế đức tính Từ Bi này nơi mọi chúng sinh vốn sẳn cho nên ai cũng có thể thành đạt đức tính này.
Vào Triều đại nhà Lý nhiều vị Thánh vương đã thành đạt đức tính Từ Bi này vì vậy mà Quốc sách An dân kiện toàn trong mọi lĩnh vực tuyệt vời như thế. Và Nhiếp chính Ỷ Lan cũng đã thể hiện đức tính Từ Bi này, nhiều sử liệu ghi chép cho là Nhiếp chính Ỷ Lan cũng là hóa thân của Bồ tát Quán Thế Âm thị hiện để trợ giúp cho Thánh vương Lý Thánh Tông thành tựu đạo nghiệp (Minh tâm kiến tánh, sáng lập dòng Thiền Thảo Đường, đệ nhị Tổ sư) đặt nền móng Giáo dục độc lập nước ta và góp phần Quốc sách an dân. . .
Nếu muốn biết đường lối thực hành theo Tông chỉ Bồ tát Quán Thế Âm thì chúng ta cùng nhau tham khảo bài yếu chỉ Phẩm Phổ Môn , phẩm thứ 25, kinh Diệu Pháp Liên Hoa của Thiền sư Thích Duy Lực biên soạn :
PHẨM PHỒ MÔN - Thứ Hai mươi Lăm.
Phổ môn là phổ biến thị hiện sức dụng thần thông của Tự tánh.
Vô Tận Ý Bồ Tát hỏi Phật: "Quán Thế Âm Bồ Tát vì nhân duyên gì tên là Quán Thế Âm?"
Phật bảo: "Nếu có vô lượng chúng sanh chịu các khổ não, nhứt tâm xưng danh (nhứt tâm là chẳng có niệm nào khác) thì sức dụng Tự tánh Quán Thế Âm hiện ra, tất cả đều được giải thoát nên gọi là Quán Thế Âm, cũng gọi là Tự tánh tự độ".
Sức dụng của Tự tánh được hiện ra thì vào lửa chẳng cháy, xuống nước chẳng chìm, dao chém chẳng đứt, thuốc độc chẳng giết được, ác quỉ chẳng hại được, lìa được tất cả tham sân si và tà kiến.
VỀ PHƯƠNG TIỆN TU HÀNH CỦA QUÁN THẾ ÂM CÓ NĂM THỨ QUÁN :
1. Chơn quán: là lập Chơn để phá Vọng. Trước tiên phải xoay cái Tánh nghe trở về Tự tánh, thoát lìa âm thanh (sở nghe). Sở nghe đã tiêu thì Năng nghe cũng hết. Nên hai tướng động tịnh chẳng sanh, do đó sự dụng của lục căn (sáu giác quan) dung thông lẫn nhau gọi là nhĩ căn viên thông cũng gọi là "phản văn văn Tự tánh".
2. Thanh tịnh quán: là dùng thanh tịnh để đối trị sự ô nhiễm của năng sở. Năng nghe Sở nghe đã hết mà chẳng trụ nơi hết. Luôn cả tri giải về sự chẳng trụ cũng không.
3. Từ quán: là độ cho chúng sanh được vui mà chẳng có năng độ gọi là Vô Duyên Từ.
4. Bi quán: là độ cho chúng sanh lìa khổ mà chẳng có sở độ gọi là Đồng Thể Bi. Khi Từ bi thể hiện thì ngã chấp (cái tôi ích kỷ) đều sạch. Tình cảm thương mến phát huy đến cùng tột, cũng như ánh sáng chiếu khắp mọi chúng sanh trong pháp giới vũ trụ, chẳng có thiếu sót. Như vậy được Hòa Quang Đồng Một (Nhiều đèn cùng chung một ánh sáng) Nên năng - sở đều diệt.
5. Quảng đại trí huệ quán: là trí huệ chiếu khắp pháp giới, quảng đại siêu việt số lượng. Tất cả năng sở, sinh diệt đều diệt thì tịch diệt hiện tiền, đây là thực tướng vĩnh viễn tồn tại cũng như phẩm Phương Tiện đã nói : "Chư pháp tùng bổn lai, thường tự tịch diệt tướng" vậy.
Phẩm này chỉ rõ sự diệu dụng của Tự tánh tự độ
"Quán Âm Diệu Trí Lực (diệu dụng của Tự tánh)
Năng cứu thế gian khổ"
Là nghĩa này vậy. (Trích Yếu chỉ Kinh Pháp Hoa của Thiền sư Thích Duy Lực)
Kính chúc mọi người chúng ta đều thành tựu đức tính Từ Bi của Bồ tát Quán Thế Âm để tự mình hóa giải hết tất cả những nổi khổ niềm đau và giúp tha nhân trần gian Ta bà, xây dựng niềm tin chơn chính và từng bước chân an lạc hạnh phúc trong cuộc sống.
Sự tích Quan Âm Thị Kính
Sự tích Quan Âm Thị Kính được lưu truyền phổ biến trong dân gian Việt Nam từ xưa qua nghệ thuật hát chèo, truyện thơ và gần đây nhất là truyện văn xuôi. Theo tác giả Nguyễn Lang, sách Việt Nam Phật giáo sử luận, tập II, “Truyện thơ Quan Âm Thị Kính (bản Nôm) hiện chưa biết được sáng tác trong thời gian nào. Bản Việt ngữ do Nguyễn Văn Vĩnh ấn hành năm 1911, gồm 788 câu lục bát và một lá thư Kính Tâm viết cho cha mẹ bằng văn biền ngẫu”. Cứ vào nội dung của truyện Quan Âm Thị Kính thì có thể đây là một dị bản của Phật giáo Cao Ly (Triều Tiên): “Thị Kính là con gái của nhà họ Mãng, quận Lũng Tài, thành Đại Bang, nước Cao Ly”. Tuy vậy, bối cảnh của câu chuyện Quan Âm Thị Kính liên quan mật thiết đến một ngôi chùa cổ ở miền Bắc nước ta, Pháp Vân tự (chùa Dâu, Bắc Ninh). Và Phật Bà chùa Dâu được xem là Phật Bà Quan Âm Thị Kính, “Xem trong cõi nước Nam ta/Chùa Vân có Đức Phật Bà Quan Âm”. Hình ảnh Quan Âm Thị Kính bồng con trên tay, qua nhiều dị bản rất gần gũi và tương đồng với những câu chuyện về Quan Âm đồng tử và Quan Âm tống tử. Theo các nhà nghiên cứu, tượng Quan Âm tay ôm đồng tử lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử tín ngưỡng tượng hình tại Việt Nam vào thế kỷ thứ XVII và đã trở nên nổi tiếng vào thế kỷ thứ XVIII, hiện nay vẫn còn bảo lưu tại nhiều chùa.
Truyện thơ Quan Âm Nam Hải gồm 1.426 câu, được lưu truyền trong dân gian trước cả truyện Quan Âm Thị Kính. Theo Nguyễn Lang (sđd), truyện Quan Âm Nam Hải vốn xuất phát từ một vị Tăng đời Nguyên bên Trung Hoa. Tích này được lưu truyền trên đất Việt kể từ khoảng cuối thế kỷ XIV hay XV và được Việt hóa. Bản Nôm cổ nhất của truyện Quan Âm Nam Hải vẫn chưa biết được khắc vào thời đại nào. Bản Việt ngữ đầu tiên Quan Âm diễn ca của Huỳnh Tịnh Của, ấn hành năm 1897.
Theo dị bản Việt hóa thì Quan Âm Nam Hải vốn là Diệu Thiện, công chúa thứ ba (về sau gọi bà Chúa Ba) con vua Diệu Trang (Subhavyùha) ở nước Hưng Lâm (có thể thuộc Ấn Độ). Nàng từ bỏ cuộc sống xa hoa của cung đình, vượt qua mọi ngăn trở của vua cha, cương quyết vượt biển đến động Hương Tích (chùa Hương ngày nay) tu hành và chứng quả tại đây. Truyền thuyết cho rằng, sau khi đắc đạo, công chúa Diệu Thiện biến thành Quan Âm nghìn mắt nghìn tay cứu độ hoàng tộc và muôn dân. Theo nhà nghiên cứu Trần Lâm Biền, tượng thờ Quan Âm Nam Hải xuất hiện ở Việt Nam vào khoảng thế kỷ XVI. “Trong một văn bia đời nhà Mạc năm 1578, học giả nổi tiếng đương thời là Nguyễn Bỉnh Khiêm cho biết tượng Diệu Thiện được tôn thờ tại chùa Cao Dương. Văn bia còn ghi rõ Diệu Thiện là một biểu tượng rất đặc thù của giáo lý từ bi trong đạo Phật. Quan Thế Âm nghìn tay nghìn mắt trước hết có liên hệ mật thiết với sự thực tập trì chú Đại bi, dần dần đã trở nên một biểu tượng rất lớn trong các chùa viện Phật giáo” (Thích Hạnh Tuấn, Hình tượng Bồ tát Quán Thế Âm nghìn tay nghìn mắt).
Như vậy, các hình thái Quan Âm Nam Hải, Quan Âm đồng tử, Quan Âm tống tử, Quan Âm Diệu Thiện, Quan Âm Thị Kính đều bắt nguồn từ lòng từ bi, hiện thân cứu độ của Bồ tát Quan Thế Âm trong kinh Pháp Hoa. Những truyện tích và tín ngưỡng Quan Âm rất phổ biến ở các nước châu Á như Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Tôn tượng Bồ tát Quan Thế Âm được thờ tại chùa viện nước ta hiện nay rất đa dạng, dựa vào một trong 33 ứng hóa thân của Bồ tát.